Họ: Tarsonemidae - Bộ: Acari
Tên khoa học khác: Hemitarsonemus latus Banks, Tarsonemus translucens (Green), Hemitarsonemus translucens
TÌNH HÌNH PHÂN BỐ VÀ KÝ CHỦ
Phân bố: Bỉ, Ðức, Hy Lạp, Hungary, Ý Ðại Lợi, Netherlands, Norway, Romania, Tây Ban Nha, Thụy Ðiển, Anh, Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Indonesia, Nhật Bản, Mã Lai, Myanmar, Oman, Phi Luật Tân, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan, Châu Phi, Argentina, Bermuda, Brazil, Gia Nã Ðại, Colombia, Cuba, Guadeloupe, Guyana, Martinique, Nicaragua, Peru, Puerto Rico, Trinidad, Tobago, Hoa Kỳ, Venezuela, Úc, Fiji, Guam, New Zealand, Papua New Guinea và các quần đảo Solomon (Crop Protection Compendium, Module 1, CD của CAB).
ÐẶC ÐIỂM HÌNH THÁI
Trứng rất nhỏ, trong suốt, hình bầu dục, mặt dưới dẹp, mặt trên có 5-6 hàng ống nhỏ dạng u lồi. Thời gian ủ trứng 2-3 ngày. Ấu trùng cũng rất nhỏ, hình trái lê, thường tập trung gần vỏ trái nơi Nhện được nở ra từ trứng. Giai đoạn ấu trùng kéo dài khoảng 2-3 ngày. Thành trùng có chiều dài 0,16 mm, chiều ngang 0,096mm.
Nhện trắng
Chu kỳ sinh trưởng rất ngắn, 4-5 ngày (từ trứng đến thành trùng). Thành trùng Cái và Ðực có thời gian sống lần lượt là 11-12 và 15-16 ngày. Thành trùng Cái đẻ khoảng 25 trứng, mỗi ngày đẻ từ 2-4 trứng. Vào giai đoạn trưởng thành, con Ðực thường mang con Cái (giai đoạn tiền trưởng thành II) trên cuối lưng bụng, ở tư thế nằm ngang, tạo nên một dạng chữ T rất đặc trưng. Trong điều kiện phòng thí nghiệm tỷ lệ Cái/Ðực khoảng 2,3-2,8.
Vòng đời nhện trắng
Triệu chứng lá bị nhện trắng gây hại
(nguồn: Trần Văn Hai)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Trong điều kiện tự nhiên, nhóm Nhện gây hại cũng bị rất nhiều loài thiên địch tấn công nên mật số của chúng thường không cao, tuy nhiên việc sử dụng thường xuyên các thuốc hóa học có phổ rộng đã tiêu diệt nhiều loài thiên địch của Nhện gây hại, điều này sẽ đưa đến sự gia tăng mật số và sự bộc phát của Nhện. Nhiều loại thuốc hóa học khi sử dụng liên tục sẽ gây hiện tượng lờn thuốc trên Nhện. Bên cạnh đó, một số loại thuốc còn có khả năng làm gia tăng mật số Nhện gây hại qua việc kích thích sự sinh sản của Nhện hoặc cũng có thể thuốc đã làm thay đổi các đặc tính sinh lý của cây ký chủ. Ngoài biện pháp hoá học, nhiều biện pháp sinh học cũng được áp dụng như sử dụng các Nhện thiên địch thuộc họ Phytoseiidae (Euseius finlandicus, Amblyseius potentillea, A. surirskii, A. aberrans, Phytoseiulus plumifer, Typhlodromus cotoneastri).
Những biện pháp canh tác, phân bón cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quần thể Nhện. Trong những vườn giầu chất dinh dưỡng, mật độ Nhện thường cao hơn những vườn nghèo dinh dưỡng (Minh Nguyệt, 1990).
Có thể sử dụng thuốc hoá học khi mật số Nhện đạt 3 con thành trùng /lá hoặc trái.
Sử dụng các loại thuốc đặc trị Nhện, các loại thuốc trừ Sâu gốc Cúc hoặc Lân hữu cơ kết hợp với Dầu khoáng. Ðể ngăn chặn sự bộc phát tính kháng thuốc, khi sử dụng thuốc hóa học cần luân phiên các loại thuốc có gốc hóa học khác nhau. Có thể sử dụng các loại thuốc như Comite, Trebon, Pegasus, Bi 58, Phosalone, Kelthane, Zineb, Danitol...... (theo liều lượng khuyến cáo) và Dầu khóang DC-Tron Plus (C 24) (nồng độ 0,5%) hoặc Zineb 0,2% để phòng trị.
Tuy nhiên do tính lưu tồn kém, nên phải sử dụng nhiều lần, đưa đến tình trạng là phải sử dụng thuốc nhiều lần và như vậy việc sử lý sẽ có thể không có hiệu qủa kinh tế (Samuel Vallée, 1996)
Bài cũ hơn