Họ: Tetranychidae - Bộ: Acari
Tên khoa học khác: Metatetranychus citri, Paratetranychus citri.
TÌNH HÌNH PHÂN BỐ VÀ KÝ CHỦ
Ðược ghi nhận tại Châu Âu, Tunisia, Iran, Nam Châu Phi, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc Châu, New Zealand, Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, Indonesia, Phi Luật Tân, Israel, Java, Palestine, Irac, Hy Lạp, Iran, Ceylon, Thái Lan., Brazil, Argentina, Chile, Peru, Colombia (Crop Protection Compendium, Module 1, CD của CAB và CIE map no. A 192).
ÐẶC ÐIỂM HÌNH THÁI
Thành trùng Nhện tròn, con Ðực dài khoảng 0,30mm, con Cái 0,35mm, mầu cam hay đỏ sậm, hình bầu dục tròn. Thành trùng đực có cơ thể thon dần về cuối bụng. Trên cơ thể thành trùng có khoảng 20 sợi lông trắng, dài, mọc trên những ống lồi nhỏ.
Thành trùng Cái có râu 3 đốt, 4 cặp chân. Ấu trùng mới nở có mầu vàng nhạt hoặc nâu nhạt với 3 cặp chân, các tuổi sau, ấu trùng có 4 cặp chân, cơ thể tròn, mầu đỏ tương tự thành trùng. Trứng rất nhỏ, tròn, mầu đỏ, phía trên có một cái cuống, từ đỉnh cuống có trên 10 sợi tơ kéo dài thành hình đồng tâm đến bề mặt của lá, rất đặc trưng.
Thành trùng nhện đỏ
(nguồn: Trần Văn Hai)
CÁCH GÂY HẠI VÀ TRIỆU CHỨNG
Nhện đỏ tấn công trên lá và trái, chích cạp và hút nhựa lá và trái. Trên lá, vết cạp và hút tạo thành những chấm nhỏ li ti trên mặt lá, khi bị nặng, vết chấm lan rộng, lá có mầu ánh bạc, lá sau đóï có thể bị khô và rụng. Khi mật số Nhện cao, cả cành non cũng bị Nhện tấn công, cành cũng trở nên khô và chết. Các lá khô có thể được giữ lại trên cây một thời gian dài sau đó.
Trên trái, Nhện thường sống tập trung ở phần cuống trái , đít trái và trong các phần lõm của trái. Khi trái còn non, Nhện chích và hút dịch ở lớp biểu bì và làm vỡ tuyến tinh dầu trên vỏ trái, vỏ trái sau đó bị biến mầu và các vết thương trên vỏ trái khô dần tạo nên những đốm sần sùi trên vỏ tráiï. Những triệu chứng này được bà con nông dân vùng ÐBSCL gọi là triệu chứng "da cám". Nếu mật số cao, trái non có thể bị rụng sớm.
Nhện đỏ gây ra triệu chứng da cám trên trái
(nguồn: Trần Văn Hai)
THIÊN ĐỊCH
Trong điều kiện tự nhiên, mật số Nhện thường bị khống chế bởi thiên địch. Trong đó, quan trọng nhất là nhóm Nhện thiên địch Euseius vàAmblyseius và Bọ Rùa Stethorus. Bên cạnh đó thì trong tự nhiên, quần thể Nhện đỏ cũng thường bị Siêu vi khuẩn gây bệnh.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Trong điều kiện tự nhiên, nhóm Nhện gây hại cũng bị rất nhiều loài thiên địch tấn công nên mật số của chúng thường không cao, tuy nhiên việc sử dụng thường xuyên các thuốc hóa học có phổ rộng đã tiêu diệt nhiều loài thiên địch của Nhện gây hại, điều này sẽ đưa đến sự gia tăng mật số và sự bộc phát của Nhện. Nhiều loại thuốc hóa học khi sử dụng liên tục sẽ gây hiện tượng lờn thuốc trên Nhện. Bên cạnh đó, một số loại thuốc còn có khả năng làm gia tăng mật số Nhện gây hại qua việc kích thích sự sinh sản của Nhện hoặc cũng có thể thuốc đã làm thay đổi các đặc tính sinh lý của cây ký chủ. Ngoài biện pháp hoá học, nhiều biện pháp sinh học cũng được áp dụng như sử dụng các Nhện thiên địch thuộc họ Phytoseiidae (Euseius finlandicus, Amblyseius potentillea, A. surirskii, A. aberrans, Phytoseiulus plumifer, Typhlodromus cotoneastri).
Những biện pháp canh tác, phân bón cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quần thể Nhện. Trong những vườn giầu chất dinh dưỡng, mật độ Nhện thường cao hơn những vườn nghèo dinh dưỡng (Minh Nguyệt, 1990).
Có thể sử dụng thuốc hoá học khi mật số Nhện đạt 3 con thành trùng /lá hoặc trái.
Sử dụng các loại thuốc đặc trị Nhện, các loại thuốc trừ Sâu gốc Cúc hoặc Lân hữu cơ kết hợp với Dầu khoáng. Ðể ngăn chặn sự bộc phát tính kháng thuốc, khi sử dụng thuốc hóa học cần luân phiên các loại thuốc có gốc hóa học khác nhau. Có thể sử dụng các loại thuốc như Comite, Trebon, Pegasus, Bi 58, Phosalone, Kelthane, Zineb, Danitol...... (theo liều lượng khuyến cáo) và Dầu khóang DC-Tron Plus (C 24) (nồng độ 0,5%) hoặc Zineb 0,2% để phòng trị.
Tuy nhiên do tính lưu tồn kém, nên phải sử dụng nhiều lần, đưa đến tình trạng là phải sử dụng thuốc nhiều lần và như vậy việc sử lý sẽ có thể không có hiệu qủa kinh tế (Samuel Vallée, 1996).
Bài cũ hơn